MỐI LIÊN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ & SỰ THẬT
Đã hơn 11.500 ngàn năm qua kể từ lúc loài người thông minh có mặt trên trái đất, cũng là chừng ấy thời gian ngôn ngữ sống chung với loài người. Trong đời sống xã hội loài người ngôn ngữ là một phần quan trọng không thể thiếu. Trong liên hệ có hai ngôn ngữ chính luôn được con người sử dụng nhằm diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình cho người người khác hiểu. Bao gồm ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ hình thể, cả hai ngôn đều có thể, thể hiện bằng chữ viết, bằng ký tự . Một người bình có thể sử dụng lời nói để diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình. Riêng những người không may mắn bị khuyết tật, họ có thể sử dụng ngôn ngữ hình thể để diễn đạt. Nói như vậy không có nghĩa là một người bình thường không sử dụng ngôn ngữ hình thể. Đôi khi người ta không nói bằng lời, nhưng chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt, một cái phẩy tay, một cái nhếch môi người khác đã hiểu họ muốn nói gì. Nhưng cho dù con người có diễn đạt ngôn ngữ tốt cách mấy, thì bản thân ngôn ngữ vẫn có nhiều mặt hạn chế của nó. Một sự minh triết không thể diễn đạt hết bằng lời, một chân lý không thể diễn tả hết mọi sự thật ẩn tiềm bằng ngôn ngữ. Vì vậy nhiều khi con người phải cảm nhận sự thật bằng trực giác, bằng trái tim, bằng ý thức từ phía bên trong nhưng không là tìm thấy trong ngôn ngữ. Càng theo đuổi ngôn ngữ càng đi xa sự thật, nhưng không có ngôn ngữ không tìm thấy sự thật. Bản chất của sự thật không nằm trong ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ là chìa khoá giúp con người tìm thấy sự thật.
Chúng ta vẫn thường cho rằng ngôn ngữ là chỉ để dùng giao tiếp giúp con người hiểu nhau. Thực ra Thượng Đế tạo ra ngôn ngữ cho con người ngoài mục đích giao tiếp và sử dụng trong đời sống. Ngôn ngữ còn ẩn chứa một ý nghĩa lớn lao hơn, đó là hiển thị hoặc ẩn tiềm chân lý về Thượng đế. Không có một ngôn ngữ của một dân tộc nào, một đất nước nào mà Thượng đế không hiển thị chân lý về Người trên ngôn ngữ đó. Chúng ta chỉ cần quan sát và động não sẽ nhận thấy sự thật này.
Trong cuốn sách này, tác giả chỉ có thể giải thích ý nghĩa một số từ, hiển thị hoặc ẩn dấu sự thật trong ngôn ngữ ViệtNam
1-Có bao nhiêu Ba Ngôi?
A- Ba ngôi cao nhất càn khôn Vũ trụ:
–Ngôi thứ nhất:
Bao gồm: Nguyên Thần Thượng Đế, còn được gọi là Đạo, Đấng tạo hoá tối cao, Đấng đầu tiên và cuối cùng, “Alpha và Omega” Thái cực, Thái Thượng…
Thượng Đế Cha, được Nguyên Thần Thượng Đế (Đạo) sáng tạo ra, Kinh dịch gọi là Thái cực sinh ra nhất Dương.
Và Thượng Đế Mẹ, được Nguyên Thần Thượng Đế (Đạo) sáng tạo ra, Kinh dịch gọi là Thái cực sinh ra nhất Âm.
Qúa trình sáng tạo ra Thượng Đế Cha và Thượng Đế mẹ của Nguyên Thần Thượng Đế, còn được biết đến theo cách gọi khác trong kinh dịch là; Thái Cực sinh Lưỡng Nghi. Thể lý của Thượng Đế Cha và Mẹ còn được gọi Thánh Thể Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Như vậy là ngôi thứ nhất bao gồm cả ba thể: Nguyên Thần Thượng Đế, Thượng Đế Cha và Thượng Đế Mẹ. Ba ngôi nhưng thực ra chỉ là một vì Nguyên Thần Thượng Đế cũng chính là ý thức của Thượng Đế Cha và Mẹ. Ngôi thứ nhất còn được biết đến với các danh xưng như: Đấng sáng tạo tối cao, Ba ngôi Thượng Đế Tối Cao, Ba Ngôi Cao Cả. Tam Thiên Thượng Đế vô cực.
B-Thượng Đế phân ngôi.
-Ngôi thứ nhất: Gồm Nguyên Thần Thượng Đế, Thượng Đế Cha và Mẹ. Nói theo cách của người Thiên Chúa Giáo, Đức Chúa Cha: là Ngôi thứ nhất.
-Ngôi thứ hai: Bao gồm 144 người con của Thượng Đế Cha, Mẹ. Nói theo cách của người Thiên Chúa Giáo, là Đức Chúa Con.
-Ngôi thứ ba: Bao gồm toàn bộ con và cháu của 144 Người con của Thượng Đế. Nói theo cách của người Thiên Chúa Giáo, là Đức Chúa Thánh Thần.
Tất cả, các cháu của Thượng Đế và hàng triệu thế hệ nối tiếp đều được coi là Chúa Thánh Thần. Phân ngôi Thượng Đế không có nghĩa là phân chia đẳng cấp, phân chia quyền lực nhằm hưởng lợi từ Ngôi thứ. Con của Thượng Đế, cháu nội của Thượng Đế, cháu cố của Thượng Đế và tất của các cháu của Người được sinh ra là định mệnh không bao giờ có thể thay đổi. Con là con, cháu là cháu, cháu cố là cháu cố và các cháu nối tiếp đang hiện hữu trong Vũ trụ, tất cả mọi người là như nhau không phân biệt hơn thua, phân biệt đẳng cấp. Người được sinh ra sớm hơn là người có trách nhiệm cao hơn, nhưng không là người có đặc quyền, đặc lợi nhiều hơn, không là người được nhận ân điển nhiều hơn.
Ngoài ra, trong đời sống thực tiển chúng ta nhận ra có nhiều thứ biểu hiện tính ba ngôi như: Ba ngôi của mỗi cá thể, Thể xác – trí tuệ – tâm hồn. Ba ngôi: Siêu ý thức – tàng thức – tiềm thức, ba ngôi: suy nghĩ – lời nói – hành động vv… Ngay cả hành động của các Vị Phật thường ngày, gọi là bắt ấn cũng đã thể hiện sự tôn kính đến Ba Ngôi Thượng Đế Tối Cao. Đưa bàn tay ra, hai ngón cụp lại ba ngón đưa
– Tâm linh là gì?
Tâm linh là một từ mang hai ý nghĩa nhưng cùng một mục đích.
– Tâm là từ tắt của từ trung tâm.
– Linh là từ tắt của từ linh hồn.
Tâm linh là trung tâm của linh hồn, là linh hồn của Thượng đế, cũng tức là Thượng Đế. Ngoài ý nghĩa hiển thị là Thượng đế, từ tâm linh còn hiển thị một ý nghĩa khác dành cho con người.
-Tâm là từ tắt của từ tâm hồn.
-Linh là từ tắt của từ linh thiêng, linh ứng.
Tâm hồn là nơi xuất phát của mọi tình cảm, từ tình yêu tuyệt đối cho đến sự tôn kính và niềm tin. Theo đuổi tâm linh cũng tức là theo đuổi Thượng đế. Nhưng trong hiện tại chúng ta chỉ có thể cảm nhận Thượng Đế thông qua niềm tin xuất phát từ tâm hồn. Thượng Đế chỉ có thể linh ứng và hiện hữu trong ta thông qua niềm tin lớn lao xuất phát từ tâm hồn, không linh ứng thông qua lý trí. Sự linh ứng của Thượng Đế thông qua niềm tin, từ đó con người sẽ ý thức được sự thật về Thượng đế bằng lý trí.
-Theo đuổi tâm linh là theo đuổi Thượng đế, tìm kiếm Thượng đế.
-Thế giới tâm linh là thế giới Thượng đế.
-Khả năng tâm linh là khả năng Thượng đế.
-Phát triển tâm linh, là phát triển mối liên hệ với Thượng Đế.
-Công nghệ tâm linh là công nghệ của Thượng Đế
3- Tại sao gọi là Ông Trời?
Ông Trời theo suy nghĩ lâu nay của con người là Thượng Đế. Sự thật là vậy, nhưng Ông Trời ngoài ý nghĩa là Thượng Đế còn mang một ẩn ý khác.
Ông tức là ông nội, ông ngoại, ông tổ là ông đúng nghĩa, Trời là Thượng Đế.
Danh xưng Ông Trời còn mang một ý nghĩa khác, và nó được hiểu Trời là Ông. Thượng đế thực ra là Ông của chúng ta chứ không phải là Cha như lâu nay chúng vẫn quen gọi. Chúa Guêsu và một số ít người khác xưng danh Thượng đế là Cha đúng nghĩa, riêng chúng ta thì phải xưng Thượng Đế là ông chứ không phải là Cha.
Đây chính là ý nghĩa thực sự của từ gọi Ông Trời
4- Con Người, Loài Người, nhân loại có ý nghĩa gì?
– Con Người.
Con là con cái, Người là từ biểu thị Thượng Đế. Vậy con Người còn được hiểu là con cái của Người. Vậy ý nghĩa được hiển thị trong từ con người, cũng có nghĩa chúng ta là con cháu của Thượng Đế.
Chúng ta đã biết một người Ông vẫn có thể xưng hô với các cháu của mình là các con của ta. Một người Ông vẫn có thể xưng với cháu mình, con trai của ta, con gái của ta. Ông và Bà đều có thể gọi con, cháu của mình là con.
– Loài Người.
-Loài là loài giống.
-Người là từ biểu thị Thượng đế.
Vậy Loài người còn được hiểu là một giống loài của Người. Ý nghĩa được hiển thị trong từ Loài Người có nghĩa: chúng ta là một giống loài của Thượng đế.
–Nhân loại.
-Nhân: ở đây được hiểu theo hai nghĩa, một là: người; hai là: cái nhân là trung tâm.
-Loại: là loại bỏ, tách ra.
Vì vậy, Nhân loại tức là con người đang bị xa rời khỏi trung tâm, trung tâm cũng có nghĩa trung tâm linh hồn, trung tâm Vũ trụ là Thượng Đế.
Tóm lại, Nhân loại là chỉ những người đang bị tách ra khỏi Thượng đế, chưa hiệp nhất với Thượng đế.
TTT
5-Đạo đức là gì?
Đạo đức là một từ xuất phát theo Đạo Đức kinh của Lão Tử (Lão Tử là hiện thân của Thượng Đế, sách Sự thật vĩ đại chương nói về tác giả)
A- Đạo:
Đạo được miêu tả trong Đạo Đức kinh của Lão Tử có thể coi là Đạo khởi thuỷ.
Đạo tức Nguyên Thần Thượng đế, Nguyên Thần là thần khí, năng lượng, ý thức, tri thức, trí tuệ nguyên thuỷ và Đạo cũng chính là nguồn năng lượng đầu tiên dùng để sáng tạo ra Vũ trụ. Tóm lại, Đạo là năng lượng ý thức đầu tiên trong Vũ trụ khởi thuỷ.
-Đạo sáng tạo tức là ý thức là trí tuệ sáng tạo.
Đạo sáng tạo ra Vũ trụ tức là trí tuệ Thượng đế sáng tạo ra Vũ trụ và tất cả mọi vật trong Vũ trụ, Đạo là mẹ của vạn vật Vũ trụ. Nhưng trí tuệ chỉ biết làm công việc sáng tạo, trí tuệ không biết đẹp biết xấu, không phân biệt đúng và sai, không phân biệt thiện và ác. Trí tuệ không biết thưởng thức vẽ đẹp cũng như chê bai cái xấu. Trí tuệ coi bản chất của một sự việc hay mọi sự vật chỉ thuần là bản chất hiện hữu của sự việc, sự vật đó, nó chỉ biết cái gì là hợp lý hay không hợp lý, cái dụng được hay cái không dụng được.
Vì vậy, Lão tử nói Đạo có trước Thượng đế, tức Nguyên thần có trước Thượng đế trong cơ thể vật lý. Đạo có trước trời đất “Trời đất còn có nghĩa là Vũ trụ”. Đạo không có thuộc tính, cũng có nghĩa là trí tuệ không có giới tính (tức trí tuệ người nam thì cũng như trí tuệ người Nữ), Đạo không có hình dạng có nghĩa là trí tuệ không có hình dạng, kích thước, không thể trông thấy được. Đạo có thể vừa mới thấy chổ này ngay tức thì lại thấy ở chổ kia, vừa mới phải, có ngay bên trái, tức tư tưởng hay suy nghĩ của con người có thể vừa mới ở Việt Nam đã sang đến Hoa kỳ, vừa mới ở Trái đất đi vào Vũ trụ trong tích tắc.
-Thiên Đạo tức là trí tuệ Thượng đế, tri thức Thượng Đế.
-Lãnh đạo tức là người nhận lãnh nhiệm vụ dẫn dắt dân chúng bằng trí tuệ.
-Đạo làm người, cũng có nghĩa là ý thức làm người
-Đắc Đạo là đạt được ý thức cao nhất, ý thức hoàn toàn, thức tỉnh hoàn toàn.
-Người có đạo Thiên Chúa Giáo là người có trí tuệ, có hiểu biết về giáo lý Thiên Chúa Giáo.
-Người có đạo Phật là người có trí tuệ, có hiểu biết về giáo lý nhà Phật.
B- Đức:
Đức còn được biết dưới một cái tên gọi khác là phần mềm tâm hồn. Đây cũng chính là câu nói của Lão tử trong Đạo Đức kinh, Đức từ Đạo mà thành. Từ đó, tâm hồn đặt tên và nuôi dưỡng tất cả mọi sự vật, sự việc do trí tuệ của Thượng đế đã sáng tạo ra. Từ tâm hồn, Thượng đế mới biết thiện biết ác, biết tốt biết xấu, biết đúng biết sai, vv…chính tâm hồn đặt tên và nuôi dưỡng các tính cách. Đây cũng chính là câu nói của Lão tử trong Đạo Đức kinh: Đức nuôi dưỡng hay còn gọi là tâm hồn nuôi dưỡng.
Đức có ý nghĩa là tâm hồn đại diện là tình yêu.
-Đức tin là niềm tin xuất phát từ tâm hồn.
-Đức Chúa Trời là tâm hồn của Thượng đế, biểu hiện bằng tình yêu.
-Đức Chúa Gêusu là tâm hồn của Chúa Guêsu, biểu hiện bằng tình yêu.
-Đức Phật Thích Ca là tâm hồn của Phật Thích Ca được biểu hiện bằng tình yêu.
Thông thường, người ta gắn chữ Đức đi liền với danh hiệu của những người làm việc thiên về tinh thần. Ví dụ: Đức Giáo hoàng, Đức Giáo chủ, Đức giám mục, Đức Thượng toạ, Đức Đạt Lai Lạt Ma vv…người ta không gắn chữ Đức đối với những người làm việc thiên về trí tuệ như các nhà khoa học hay các nhà lãnh đạo.
Khi nói đến người có đạo đức là nói đến người có ý thức, có trí tuệ và có tâm hồn trong sáng nhân hậu, từ bi, bác ái. Người có đạo đức cao cũng có nghĩa là người có ý thức hiểu biết cao và có tâm hồn luôn thể hiện tình yêu lớn.
Tóm lại: Đạo đức nói theo nghĩa đơn giản nhất thì đó là ý thức và tâm hồn.
“Điều gì đạo đức làm là trao tặng cho bạn tự do. J. Krishnamurti.”
Quả thật, những ai là người có đạo đức sẽ được giải thoát, được cứu rỗi và cuối cùng là linh hồn của chúng ta sẽ được tự do.
One response to “Chương 1”
-
Good…
Leave a Reply Cancel reply