- Điểm Nhấn Phát Triển Tri Thức Của Thế Giới
Chúng ta không thể phủ nhận khoa học kỹ thuật là lĩnh vực vô cùng cần thiết cho sự phát triển và tiến hóa của nhân loại. Con người từ rất xa xưa đã từng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống, nhưng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến chỉ mới phát triển vượt bậc trong vòng hơn 100 năm trở lại đây. Có hai nguyên nhân chính giải thích vì sao quá trình phát triển khoa học của con người không có sự đồng bộ về mặt thời gian:
1) Bùng nổ dân số: Chúng ta biết rằng năm 1800, dân số thế giới ước chừng 1 tỷ người nhưng hiện tại đã lên đến 7 tỷ người. Hai trăm mười năm là khoảng thời gian chỉ xấp xỉ 1/60 số thời gian con người hiện đại có mặt trên thế giới, vậy mà dân số đã tăng lên tới 700%, một mức độ tăng trưởng có thể xem là quá nhanh.
2) Tiến hóa về mặt đạo đức: Sự tiến hóa của con người bao gồm nhiều mặt nhưng sự tiến hóa về mặt đạo đức phẩm hạnh và cung cách ứng xử của con người là quan trọng nhất. Nói chung, phần lớn con người thời nay sống văn minh hơn, nhận thức cao hơn, tôn trọng pháp luật hơn, hành xử nhân văn hơn. Quan hệ xã hội và quan hệ giữa các quốc gia bình đẳng hơn…
Bùng nổ dân số là lý do quan trọng để Thượng Đế xét đến việc trang bị tri thức mới cho con người, nhưng yếu tố về đạo đức cũng là tiêu chí rất quan trọng .
Chúng ta thử tưởng tượng trước đây khoảng 1000 năm, dân số thế giới là 7 tỷ người thì liệu rằng chúng ta có thể sinh tồn được không? Nếu trường hợp này xảy ra thì quả thật là rất khó khăn cho đời sống của chúng ta vì nền văn minh và trình độ khoa học kỹ thuật của chúng ta thời đó còn rất lạc hậu. Chúng ta lạc hậu trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, năng lượng, phương tiện giao thông,
kỹ thuật xây dựng, trình độ y tế, cơ sở hạ tầng… mọi thứ đều rất thô sơ nên khó mà đáp ứng được nhu cầu sống của 7 tỷ người. Ngược lại, nếu con người thời ấy sở hữu một nền tảng khoa học công nghệ như hiện nay, đặc biệt là vũ khí hạt nhân, hóa học, sinh học thì chưa chắc đã là điều tốt đối với chúng ta. Vì thời đó, một cường quốc chỉ cần dựa vào ý muốn của một vị Hoàng đế là có thể khởi động một cuộc chiến xâm lược mà không bị kiềm chế bởi bất cứ một tổ chức nào.
Tóm lại, trước khi Thượng Đế trang bị tri thức cho con người để đáp ứng nhu cầu sinh tồn trong thời đại bùng nổ dân số, Ngài đã xem xét nhân loại đã có đủ đạo đức phẩm hạnh để tiếp nhận tri thức đó hay không. Trong trường hợp ngày nay loài người vẫn chưa sở hữu được một nền tảng khoa học và công nghệ cao, nhưng sở hữu được nền tảng đạo đức phẩm hạnh tốt thì thế giới vẫn sẽ sống trong yên bình và hạnh phúc. Nhưng nếu con người sở hữu được một nền tảng khoa học và công nghệ cao mà đạo đức phẩm hạnh kém, chắc chắn thế giới sẽ không bình yên và rất có thể thế giới sẽ bị diệt vong.
Chúng ta vẫn biết trước đây đã có không ít thiên tài thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Nhưng những thiên tài mang tri thức mới thuộc các lĩnh vực khoa học kỹ thuật tiên tiến thì chỉ mới xuất hiện nhiều trong thời gian gần đây. Dân số thế giới gia tăng song hành với sự phát triển tri thức về khoa học công nghệ cao. Nhưng sự ra đời của các thiên tài và các nhà khoa học ưu tú không tỷ lệ thuận với dân số của một châu lục, một khu vực hay một đất nước. Thiên tài ra đời tại một đất nước nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và do Thượng Đế quyết định. Thượng Đế đã tính toán kỹ để khi các thiên tài ra đời có điều kiện làm việc tốt nhất và hiệu quả nhất, cuối cùng là truyền đạt khối lượng kiến thức mà họ có được cho nhân loại.
Thời Kỳ Tri Thức Phát Triển Nở Rộ
Chúng ta biết rằng châu Phi là cái nôi của nhân loại nhưng Châu Âu mới là cái nôi của khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong thời kỳ phục hưng và nhất là những thế kỷ tiếp theo, Châu Âu sản sinh ra rất nhiều thiên tài thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như văn học, vật lý, hóa học, sinh học… Các nhà khoa học tài ba của Châu Âu là những người đi tiên phong xây dựng nền tảng khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới ngày nay.
Nhưng vì sao vào thời kỳ đó phần lớn các thiên tài ra đời ở Châu Âu mà không phân bố đều trên các châu lục. Có hai nguyên nhân được tìm thấy giải thích hiện tượng cục bộ về mặt địa lý này:
1) Cải cách kháng cách: Là nền tảng định hình lại tư tưởng của một số người dân thuộc các nước châu Âu để đối kháng với thẩm quyền của giám mục và hệ thống tăng lữ giáo hội công giáo Roma một cách liên tục. Dần dần, phong trào cải cách kháng cách vượt qua giới hạn truyền thống, từ bỏ các lễ nghi hình thức không cần thiết. Chú trọng vào các vấn đề như quyền tự do cá nhân, gieo mầm cho tiến trình dân chủ hóa, giúp con người hội nhập xã hội và thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần lao động sản xuất. Cải cách kháng cách đã có tác động tích cực lên lĩnh vực khoa học, thể hiện rất rõ nét trong trường hợp điển hình sau.
- Galileo Galilei, sinh năm 15/02/1565- 08/01/1642, là nhà thiên văn, vật lý, toán học người Ý và Issac Newton, 04/01/1643- 31/03/1727, là nhà vật lý, thiên văn học, toán học người Anh. Hai nhà khoa học thiên tài này gần như ra đời trong một giai đoạn lịch sử. Nhưng vì Galileo sinh sống và làm việc ở Ý nên sự nghiệp khoa học của ông bị hạn chế rất nhiều do bị trói buộc bởi giáo hội công giáo Roma. Ngược lại Issac Newton do được sinh sống và làm việc tại Anh nên không bị ràng buộc bởi tôn giáo như Galileo. Newton được tự do hoàn toàn trong công việc nghiên cứu khoa học và các công trình của ông giúp ích rất nhiều cho nhân loại.
2) Khí hậu: Châu Âu là châu lục có khí hậu ôn đới, một điều kiện khí hậu mà nhiều người cho là rất tự nhiên, nhưng thực tế này đã đem lại cho con người vô vàn lợi ích. Không phải ngẫu nhiên mà những dân tộc được may mắn sống trên các vùng có khí hậu ôn hòa đa phần những nước phát triển như: Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Nga, Hà Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… Không vì ngẫu nhiên mà các nước G8 đều là những nước thuộc nhóm có vị trí địa lý khí hậu ôn hòa. Không vì ngẫu nhiên mà các nước này có các nhà khoa học nhận giải thưởng Nobel đạt tỷ lệ rất cao đặc biệt là Hoa kỳ.
Yếu tố khí hậu tưởng chừng như là một điều rất bình thường, không có liên quan gì tới sự xuất hiện của các nhân tài và sự phát triển của một quốc gia. Nhưng chúng ta nên biết rằng khí hậu là một nhân tố rất quan trọng và vững bền cho sự phát triển tri thức dẫn đến sự phát triển đất nước và thế giới. Vì đối với những người sống và làm việc trong môi trường khí hậu ôn hòa, bộ não của họ phát triển tốt hơn, tốc độ xử lý nhanh hơn và hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều so với những người sống ở xứ nhiệt đới, Ví dụ:
1) Hai người có trình độ tương đương về kiến thức, cùng làm việc trong một lĩnh vực nghiên cứu. Nhưng người A được làm việc trong môi trường nhiệt độ 20°C , còn người B làm việc trong môi trường nhiệt độ 37°C. Chắc chắn hiệu suất công việc của người A cao hơn người B rất nhiều.
2) Những bệnh nhân tâm thần, vào mùa hè oi bức nhiệt độ cao sẽ dễ lên cơn điên hơn mùa đông là do nhiệt độ bên ngoài tác động lên não. Nhiệt độ cao làm bộ não con người hoạt động kém hiệu quả và tốc độ xử lý chậm. 20°C là nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển và hoạt động của bộ não con người (20°C cũng là nhiệt độ trong lòng kim tự tháp Gisa ở Ai cập đã được các Thiên Thần tạo ra để sinh hoạt và làm việc khi còn ở Địa cầu).
Tóm lại vì hai lý do cộng hưởng quan trọng này nên thời điểm sau cải cách kháng cách, Thượng Đế đã trang bị tri thức mới cho nhiều Thiên tài ra đời tại Châu Âu. Những năm gần đây có rất nhiều nhà khoa học tài ba xuất hiện khắp thế giới, điều này vẫn phụ thuộc vào hai yếu tố trên.
Thứ nhất: Ngày nay, phần lớn các nước trên thế giới, vai trò của tôn giáo không còn ảnh hưởng đến đường lối, quyết sách, thể chế của quốc gia. Tôn giáo đương đại chủ yếu tập trung dẫn dắt tinh thần con người trong tín ngưỡng. Mọi hoạt động sinh hoạt đời thường không còn bị lệ thuộc bởi các lễ nghi hình thức và giáo điều của các tôn giáo. Vì vậy, ngày nay có rất nhiều người mặc dù vẫn theo đạo nhưng họ không còn bị ràng buộc quá nhiều vào tôn giáo (Cải cách kháng cách là một ví dụ điển hình). Càng gần gũi với đời thường, con người càng phấn đấu làm việc và đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.
Thứ hai: Nhiều sản phẩm khoa học công nghệ ra đời góp phần nâng cao đời sống con người, trong đó sản phẩm điều hòa nhiệt độ (máy lạnh) là sản phẩm giúp ích rất nhiều cho những quốc gia vùng nhiệt đới. Điều hòa giúp cải thiện môi trường sống, môi trường làm việc, học hành, nghiên cứu cho những quốc gia này.
Tác Động Của Việc Bùng Nổ Dân Số
Việc gia tăng dân số thế giới có ý nghĩa lớn với con người và Thượng Đế vì ngay từ thuở sơ khai Ngài đã khuyến khích con người hãy sinh sản thêm cho thật nhiều (Kinh Thánh Cựu Ước, Sáng Thế Ký, Chương 1:28). Sự bùng nổ dân số thế giới là nguyên nhân chính Thượng Đế trang bị tri thức cho con người nhằm phát triển khoa học công nghệ phục vụ đời sống. Nhưng trên thực tế, mọi việc xảy ra là tốt hay xấu đều phải có giới hạn của nó, vấn đề dân số thế giới cũng không ngoại lệ. Ngày xưa, con người trên Trái đất rất thưa thớt, vì vậy Thượng Đế khuyến khích con người gia tăng dân số. Nhưng nếu cứ gia tăng mãi không kiểm soát thì e rằng về lâu dài, chính việc này sẽ đem lại cho con người rất nhiều bất lợi ngoài dự đoán.
Ví dụ: Thế giới cách đây 2000 năm được ví như một đại công trường đang thiếu hụt nguồn nhân lực trầm trọng, nó phải được bổ sung gấp nguồn nhân sự để duy trì tiến độ công việc. Nhưng nếu cứ vẫn tiếp tục đẩy mạnh tiến độ tuyển dụng lao động theo tốc độ đó (bùng nổ dân số), rất có thể đại công trường kia sẽ bị phá sản.
Hiện nay trên thế giới chưa có tổ chức hay nhà khoa học nào nghiên cứu để đưa ra dự đoán bao nhiêu tỉ người sinh sống trên Trái đất là tối ưu nhất. Chúng ta không biết đến bao giờ Thượng Đế mới quyết định phán xét cuối cùng, có thể là 500 năm, 5000 năm hoặc hơn nữa, nhưng không thể là một sớm một chiều. Vậy nếu con người vẫn tiếp tục duy trì tiến độ sinh sản như hiện nay thì chỉ cần đến cuối thế kỉ 22 dân số thế giới sẽ khoảng 20 tỷ người và chưa thể tính được đến thế kỷ 30 sẽ là bao nhiêu.
Mặc dù chúng ta không đoán được thời điểm ngày xảy ra phán xét cuối cùng, nhưng chúng ta có thể đoán được sự việc diễn ra trong ngày phán xét. Dân số thế giới càng đông thì tỷ lệ người được Thượng Đế cứu rỗi càng thấp. Dân số thế giới càng nhiều thì tiêu chuẩn được lựa chọn càng cao. Việc Thượng Đế cứu rỗi bao nhiêu người là phù hợp cho một cuộc sống tối ưu trên Trái đất trong tương lai chắc chắn Ngài đã biết. Con người sau khi được cứu rỗi sẽ bất tử và hưởng một cuộc sống thần tiên bao gồm rất nhiều yếu tố, trong đó không gian sống là yếu tố rất quan trọng.
Nếu con người sống trong một thành phố quá chật hẹp, trong những khu chung cư cao tầng đông đúc và mật độ dân số quá cao sẽ không đáp ứng được nhu cầu về một cuộc sống hoàn mỷ. Con người phải được sống với thiên nhiên, cảnh vật xinh tươi, sông nước hữu tình mới được cho là hưởng thụ cuộc sống tốt đẹp. Vì vậy, dân số thế giới quá đông sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu này. Nếu trong tương lai con người vẫn duy trì tốc độ phát triển dân số như hiện nay thì rất có thể Thượng đế sẽ điều tiết và cắt giảm cung cấp linh hồn mới cho loài người. Ngài sẽ thực điều tiết hoặc bằng cách làm cho nhiều người trở nên vô sinh hoặc gieo rắc dịch bệnh, điển hình như dịch HIV là một lời cảnh báo về lĩnh vực tình dục. Sau này rất có thể sẽ còn xuất hiện nhiều loại virút khủng khiếp hơn virút HIV do các Thiên Thần mang đến Trái đất từ ngoài vũ trụ. Ngoài ra, Thượng Đế có thể sẽ mang đến cho con người thiên tai và nhiều điều tệ hại khác gây ra sự chết để cân bằng dân số thế giới. Thực ra, Thượng Đế không đem lại cho con người những điều tồi tệ như đã kể trên, mà chính con người sẽ chuốc lấy hậu quả do chúng ta chọn.
Vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta nên hạn chế tối đa sự bùng nổ dân số, bằng ngược lại chúng ta sẽ gặp nhiều rắc rối trong việc duy trì cuộc sống cho toàn nhân loại và tự làm hại chính mình theo nhiều hướng khác nhau không thể dự đoán trước.
- Khoa Học Công Nghệ Tương Lai
Mặc dù ngày nay con người đã sở hữu một nền tảng khoa học công nghệ khá cao, nhưng nếu đem so sánh với các sự sống đi trước chúng ta trong vũ trụ và nhất là sự sống nơi Thượng Đế ngự trị thì trình độ của chúng ta vẫn còn rất hạn chế. Hơn 10.000 năm con người hiện đại có mặt trên Trái đất là khoảng thời gian quá ngắn so với các sự sống đã đi trước chúng ta. Nếu con người muốn đạt được một trình độ tiến hóa tương đương như họ, chúng ta cần phải có rất nhiều thời gian.
Trong tương lai, nếu con người muốn đạt được sự sống bất tử trong một thế giới hoàn hảo, ít nhất con người phải sở hữu được ba công nghệ tiêu biểu: đó là sónghấp dẫn, sóng phản trọng lực và siêu sóng não.
Sóng Hấp Dẫn Và Sóng Phản Trọng Lực
Sóng hấp dẫn là loại sóng có khả năng tạo ra tốc độ rất cao cho một vật thể di chuyển trong không gian. Sóng phản trọng lực là một loại sóng có khả năng khống chế trọng lực của tất cả mọi vật thể trong vũ trụ. Sau khi con người tìm ra và làm chủ được hai công nghệ này, chúng ta sẽ sản xuất được đĩa bay và vận hành nó tương tự như các Thiên Thần đã sử dụng đĩa bay đi lại trong vũ trụ và bầu trời của Trái đất. Với công nghệ vũ trụ của chúng ta hiện nay, thì dù con người có cố gắng cách mấy cũng không thể đi xa hơn hệ Mặt trời. Sở hữu được đĩa bay con người mới có thể đi lại trong không gian vũ trụ dễ dàng và thám hiểm được những hành tinh xa xôi trong giải thiên hà. Ngoài đĩa bay chúng ta còn tạo ra được nhiều phương tiện đi lại mới thay thế cho những phương tiện hiện tại như: xe máy, ô tô, tàu hỏa, máy bay. Trong tương lai, một trong những phương tiện đi lại phổ biến hàng ngày của chúng ta sẽ là một thiết bị có thể khoát lên nguời giống như đôi cánh Thiên Thần trong truyền thuyết. Các thiết bị này sẽ đưa con người bay vào không gian với vận tốc và độ cao phù hợp theo sự điều khiển của người sử dụng.
Trong tương lai, công nghệ sóng hấp dẫn và sóng phản trọng lực sẽ thay thế các phương tiện vận tải nặng, cần cẩu, cần trục… mà chúng ta đang sử dụng hiện nay. Các phương tiện mới sẽ hoạt động rất hiệu quả tương tự như các thiết bị mà các Thiên Thần đã sử dụng để vận chuyển những tảng đá lớn và xây dựng các kim tự tháp ở Ai Cập cùng các công trình kiến trúc thời cổ đại khác. Nói tóm lại con người sẽ sử dụng công nghệ siêu việt này phục vụ cho cuộc sống tối ưu của nhân loại và trợ giúp các sự sống đi sau chúng ta.
Siêu Sóng Não
Siêu sóng não là một loại sóng rất đặc biệt vì vận tốc của nó là vô hạn và đường đi của nó không bị cản trở bởi một loại vật chất hay một vật thể nào có trong vũ trụ. Trong quá khứ và hiện tại Thượng Đế và cácThiên Thần đã sử dụng công nghệ siêu sóng não kết nối và điều khiển bộ não con người. Nhưng có lẽ con người sẽ không thể nào làm chủ được công nghệ này trước khi được Thượng Đế cứu rỗi và giải thoát cho chúng ta. Vì nếu sớm sở hữu công nghệ này, con người sẽ đọc được suy nghĩ và điều khiển người khác theo ý muốn của mình, làm xáo trộn kế hoạch toàn tri của Thượng Đế.
Công nghệ siêu sóng não đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cuộc sống trường sinh bất tử cho con người trong tương lai. Chúng ta đã biết chỉ có linh hồn là bất tử còn thể xác sinh học không thể nào sống mãi cùng với thời gian. Bởi vậy sau ngày phán xét, Thượng Đế sẽ trao cho chúng ta những kiến thức cuối cùng về y học, công nghệ gene … giúp con người giãi quyết các vấn đề có liên quan đến lão hóa, đau ốm, bệnh tật… Nguồn gene mới sẽ cho con người một thể xác hoàn thiện về thể chất và tuổi thọ cao. Nhưng chỉ với tri thức về y học và bộ gene mới sẽ không đủ giúp con người sống trường sinh bất tử.
Trong cuộc sống trường sinh bất tử, linh hồn của mỗi chúng ta vẫn luôn kết nối với trung tâm lưu trữ dữ liệu linh hồn dựa trên công nghệ siêu sóng não đặt tại Trái đất. Khi thể xác con người bị lão hóa, hoặc bị tai nạn mất xác chúng ta sẽ sử dụng công nghệ siêu sóng não để cài đặt linh hồn đã được lưu trữ nơi trung tâm vào một thể xác mới. Sau khi hoàn thành, người đó sẽ sống lại bình thường như vừa trải qua một giấc ngủ. Việc làm này của con người trong tương lai tương tự như các Thiên Thần đã thực hiện đối với chúng ta trong một số trường hợp điển hình sau:
1) Ngày 19/07/1985, cô gái Ấn Độ Sumitra 17 tuổi chết và gia đình đang chuẩn bị an táng. Bỗng nhiên cô gái sống lại tự xưng là Shira và không hề biết những người chung quanh là ai. Cô ấy nói cô mượn xác của Sumitra sống lại. Shira là một phụ nữ 22 tuổi chết trước đó 2 tháng, thi thể được tìm thấy trên đường tàu hỏa với nhiều vết thương trên đầu. Sau khi Shira sống lại trong thể xác Sumitra, cô được đưa về gia đình Shira. Sumitra liền nhận ra người thân, bạn bè, người láng giềng, đồ vật cá nhân và viết đúng nét chữ, văn phong của Shira trong khi Sumitra là người không biết chữ.
2) Tại làng Tân Việt, Cà Mau (vùng đầm dơi) Việt Nam, con gái ông cả Hiếu chết lúc 19 tuổi. Cùng thời điểm đó, tại làng Vĩnh Mỹ cũng có một cô gái bị bệnh chết, người nhà đang tẩm liệm và chuẩn bị chôn cất, bất ngờ ngày hôm sau cô gái sống lại khỏe mạnh tự nhiên như không hề bị đau ốm. Sau khi sống lại, cô gái một mực đòi dẫn cô đến nhà cha cô là ông cả Hiếu. Sau nhiều lần từ chối vì nghĩ con mình không bình thường, nhưng sau cùng cha cô gái dẫn cô đến nhà ông cả Hiếu. Cô gái đã mô tả ngôi làng, đường đi đến căn nhà và mô tả chi tiết về người nhà ông cả Hiếu. Khi đến nơi, cô nhận ông bà cả Hiếu là cha mẹ mình và kể cho họ nghe những bí mật chỉ có họ biết với nhau.
Đây là hai trường hợp các Thiên Thần cho di hồn chiếm xác. Trong tương lai, con người cũng sẽ sử dụng công nghệ siêu sóng não di chuyển linh hồn từ thể xác này qua thể xác khác để chúng ta duy trì cuộc sống đời đời.
Người Máy Sinh Học
Hiện nay con người đã chế tạo ra được các thế hệ người máy nhằm phục vụ trong sản xuất công nghiệp, thám hiểm, dịch vụ…Nhưng các thế hệ người máy của chúng ta thực sự thua kém xa các thế hệ người máy của Thượng Đế và các Thiên Thần, bởi các thế hệ người máy của họ là thế hệ người máy sinh học cao cấp.
Trong thực tế, rất hiếm khi các Thiên Thần trực tiếp vận hành đĩa bay mà phần lớn là do người máy sinh học đảm nhiệm công việc này khi đến Trái đất. Người máy sinh học có hình dáng đầu to quá khổ nhằm mục đích chứa được nhiều dữ liệu và xử lý não tốc độ cao, mắt to để nhìn xa và rõ hơn và tai rất to so với cơ thể sẽ thính hơn. Cấu tạo cơ thể và hoạt động trí tuệ của người máy sinh học cũng giống như con người, nhưng người máy sinh học không được trang bị chương trình phần mềm tâm hồn.
Sau khi con người làm chủ được công nghệ siêu sóng não, chúng ta sẽ chỉnh bộ gene người và nhân bản vô tính để tạo ra những thế hệ người máy sinh học tương tự như những người máy sinh học của Thượng Đế. Khi đã hoàn thành phần cơ thể vô tính, chúng ta sẽ dùng công nghệ siêu sóng não cài đặt vào bộ não của những cơ thể này một chương trình phần mềm ý thức và một khối luợng kiến thức thuộc một hoặc vài lĩnh vực chuyên môn nào đó. Như vậy, chúng ta đã hoàn thành việc sản xuất người máy sinh học. Người sinh học có thể giỏi hơn con người về một lĩnh vực riêng rẽ nào đó. Người sinh học có thể học hỏi, bổ sung kiến thức và làm việc giống như con người nhưng họ không có lòng ham muốn, tham vọng riêng tư, không biết buồn, vui, giận hờn. Họ chỉ biết làm việc theo sự chỉ định của con người. Trường hợp thể xác người máy sinh học lão hóa hoặc bị tai nạn, chúng ta sẽ thu hồi những dữ kiện thông tin có trong não của họ. Sau đó, cài đặt lại những thông tin này vào một thể xác vô tính khác giúp họ sống lại và tiếp tục làm việc bình thường.
Ngày nay các nhà khoa học có thể nhân bản vô tính thành công với các loài động vật khác nhau. Như đã trình bày trong chương II, tất cả các giống loài sống trên Trái đất, trí tuệ và tình cảm được di truyền theo gene cho nên khi nhân bản thành công thì các phiên bản đó có thể sống bình thường như được cha mẹ chúng sinh ra. Nhưng kỹ thuật này không áp dụng được với con người vì thể xác nhân bản của con người không có trí tuệ và tình cảm, trừ khi chúng ta sở hữu được công nghệ siêu sóng não để cài đặt linh hồn cho những thể xác vô tính đó.
Du Hành Vũ Trụ
Chúng ta rất đáng tự hào vì những thành tựu khoa học và công nghệ mà loài người đã đạt được trong những thế kỷ gần đây. Đặc biệt là trong lĩnh vực không gian vũ trụ, vì mới cách đây khoảng 5 thế kỷ con người còn nghĩ rằng Trái đất là định tinh, vậy mà đến thế kỷ 20 con người đã chinh phục được Mặt trăng. Nhưng với công nghệ vũ trụ hiện nay, chúng ta chỉ có thể chinh phục được những hành tinh trong hệ Mặt trời. Trường hợp, con người tiến xa hơn và sản xuất được đĩa bay thì cự ly hoạt động của các phương tiện này cũng không thể đến được những hành tinh xa hàng triệu năm ánh sáng hay những thiên hà cách Trái đất hàng tỷ năm ánh sáng. Nhưng cho dù đĩa bay có thể đạt tốc độ xấp xỉ ánh sáng thì con người cũng không thể ngồi trong đĩa bay hàng triệu năm để đến được những hành tinh xa xôi đó. Đĩa bay không thể vượt tốc độ ánh sáng vì dù sao nó vẫn phải được chế tạo bằng vật chất mà vật chất thì không thể vượt tốc độ ánh sáng.
Trong tương lai, sau khi loài người trên Trái đất được cứu rỗi, chúng ta sẽ được gia nhập làm thành viên của những sự sống đã tiến hóa cao và tất cả đều dưới quyền cai quản của Thượng Đế. Khi đó chúng ta có thể đi đến những hành tinh thành viên thăm viếng và du lịch bằng công nghệ siêu sóng não. Cách thức con người đi lại trong vũ trụ tương tự như cách Thượng Đế cho linh hồn đi đầu thai hay như Đức Chúa Giêsu giáng thế cách đây 2000 năm. Trước khi con người muốn đi đến bất cứ một hành tinh thành viên nào trong vũ trụ chúng ta liên lạc trước với người hành tinh sở tại để họ chuẩn bị số lượng người vô tính cần thiết. Sau đó, chúng ta sử dụng công nghệ siêu sóng não cài đặt linh hồn của những người Trái đất vào những thể xác vô tính tại hành tinh đó, những người này sẽ sống lại và hoạt động bình thường như đang sống trên Trái đất. Khi trở về, con người cũng dùng cách đó.
Tóm lại, công nghệ siêu sóng não là một phương tiện đảm bảo cho mọi người trên Trái đất có được sự sống trường sinh bất tử và một cuộc sống tiện nghi tuyệt hảo nhất. Nhưng để đạt được mức độ tiến hóa cao, chúng ta sẽ còn cần rất nhiều thời gian và sự giúp đỡ của Thượng Đế cùng các Thiên Thần để nâng cao tri thức. Quả thật khoa học là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến THIÊN ĐÀNG.
You’ve really captured all the esnsteials in this subject area, haven’t you?